Lab Report #2: Đạo nhạc (P.2) - Các cách sao chép đúng luật
Không phải bất kì sự tương đồng nào trong âm nhạc cũng có thể bị quy kết thành đạo nhạc
Tóm tắt phần 1
Trong phần 1, chúng ta đã cùng nhau phân tích vấn đề đạo nhạc dưới góc nhìn của nhạc lí. Còn trong phần 2 này, mình muốn tìm hiểu thêm về vấn đề này qua góc nhìn của người nghệ sĩ, đồng thời phân tích những yếu tố khách quan và chủ quan dẫn đến việc các ca khúc có nhiều sự tương đồng. Mục đích của việc này không phải là để bào chữa cho những nghệ sĩ đạo nhạc, mà chỉ đưa ra thêm một góc nhìn để giúp chúng ta có thể hiểu và nhận xét rõ ràng hơn về bản chất của vấn đề: rằng đôi khi mọi thứ không hẳn là đạo nhạc như chúng ta có thể lầm tưởng
Còn giờ thì chúng ta cùng bắt đầu nhé!
Tổng quan
1. Các biện pháp sao chép đúng luật
Không phải cứ giống nhau thì đã là đạo nhạc
Cần phải khẳng định một lần nữa rằng không phải mọi sự giống nhau trong âm nhạc đều đáng bị lên án. Trái lại, việc một nghệ sĩ học hỏi và áp dụng chung công thức thành công của các nghệ sĩ khác là một nhu cầu tất yếu của âm nhạc và đôi khi cũng chính là sự chứng nhận cho sức ảnh hưởng của nghệ sĩ. Nếu thiếu đi yếu tố này, thì thật khó để cho âm nhạc có được sức lan toả như vậy.
Trên thực tế, có rất nhiều phương thức mà nghệ sĩ có thể sử dụng để học hỏi (hoặc nói thẳng ra là sao chép) từ các nghệ sĩ khác một cách hoàn toàn hợp lệ. Và dưới đây chúng ta sẽ cùng tìm hiểu kĩ hơn về các biện pháp này:
Trope
Style Recycling
Sample
Flipping
Interpolation (phép nội suy)
1.1. Trope
Định nghĩa: Việc học hỏi và áp dụng các công thức âm nhạc và kĩ thuật sản xuất.
Yêu cầu bản quyền:
không nằm trong diện bảo hộ bản quyền và có thể sử dụng mà không cần xin phép
Ví dụ của Trope trong âm nhạc
Sử dụng autotune
Sử dụng liên tiếp những nốt liên ba (triplet) trong việc xây dựng cấu trúc của các bài rap
Sự phổ biến của trope có thể được thấy rõ nhất trong thế giới âm nhạc Hip Hop. Nếu bạn quan tâm, thì video dưới đây cho thấy những phân tích vô cùng thú vị của Vox về nguyên nhân vì sao các ca khúc Hip Hop lại trở nên quá giống nhau do việc cùng sử dụng cấu trúc với các nốt liên ba.
Nhìn chung, việc học hỏi và áp dụng biện pháp trope theo mình là một nhu cầu tất yếu khi âm nhạc trở nên toàn cầu hoá. Điều này giúp các nghệ sĩ vừa làm mới mình, vừa giúp tiếp cận những kĩ thuật sản xuất tân tiến và đặc sắc của thế giới, đặc biệt là với một nền âm nhạc đang bước vào thời kì hội nhập và phát triển thần tốc như Việt Nam.
Để lấy ví dụ, một trong những ca khúc tại Việt Nam thành công và khéo léo trong việc sử dụng trope với cá nhânh mình là bài Em Mới Là Người Yêu Anh (Min), sáng tác bởi Khắc Hưng. Đây là một ca khúc mà phần sản xuất ít nhiều được lấy cảm hứng từ bài Blank Space (Taylor Swift). Nếu chỉ dựa vào các yếu tố nhạc lí như giai điệu, hoà thanh và nhịp điệu thì nhìn chung hai ca khúc này khá khác nhau. Tuy nhiên, nếu chú ý kỹ hơn đến các yếu tố khác như âm thanh bộ trống, tiếng bass synth dày và xuyên suốt bài hát, hay việc tối giản hoá nhạc khí (instrumental) để biến phần giọng hát (vocal) lên làm chủ đạo thì ta có thể thấy rõ được sự tương đồng với bài Blank Space. Khi một nghệ sĩ có thể học hỏi từ các nghệ sĩ khác nhưng không lạm dụng mà vẫn giữ được nét riêng biệt của cá nhân thì mình cho rằng đó là một thành công và thể hiện được cái tài và cái tâm của người nghệ sĩ. Và thật sự đây cũng là một trong những ca khúc Vpop yêu thích của mình
1.2. Style Recycling (Tái sử dụng phong cách)
Định nghĩa: việc học hỏi và áp dụng lại những công thức âm nhạc và kĩ thuật sản xuất nhằm tái hiện lại phong cách âm nhạc của thế hệ đi trước.
Yêu cầu bản quyền:
không nằm trong diện bảo hộ bản quyền và có thể sử dụng mà không cần xin phép
Ví dụ về những ca khúc sử dụng phong cách Style Recycling
Năm 2012: Lana Del Rey (album Born to Die) và phong cách nhạc dreampop của thập niên 50, 60
Năm 2014: Bruno Mars (album Uptown Special) và phong cách Minneapolis Funk của cuối thập niên 70
Những năm gần đây: Các bài hát mang phong cách citipop/synthpop của thập niên 80 như Blinding Light (The Weeknd), As It Was (Harry Styles), hay Cold Hearts (Dua Lipa).
Sự thịnh hành của Style Recycling là một minh chứng cho thấy được giá trị luân hồi của âm nhạc. Nhìn chung, việc thế hệ sau học hỏi, giữ gìn và phát huy phong cách âm nhạc của thế hệ đi trước là một việc làm đáng hoan nghênh. Nó thể hiện được sự tiếp nối giá trị giữa các thế hệ, đồng thời góp phần tạo nên sự phong phú trong âm nhạc
1.3. Sample và Flipping
Định nghĩa
Sample: biện pháp sử dụng một đoạn nhạc có sẵn để áp dụng hoặc biến tấu nó để tạo nên một giai điệu, một ca khúc mới.
Flipping: một dạng biến thiên của Sample. Thay vì sử dụng trực tiếp đoạn nhạc có sẵn thì nhà sản xuất có thể sử dụng nhiều biện pháp xử lý và tinh chỉnh (cắt, gọt, bóp méo, v.v…) đến mức đôi khi người nghe khó mà nhận ra được đoạn nhạc gốc.
Yêu cầu về bản quyền
Sample mua từ các sàn thương mại (marketplace): chủ động sử dụng tuỳ ý
Sample từ các ca khúc có sẵn: cần xin phép chủ sở hũu của sản phẩm
Ví dụ về những ca khúc sử dụng sample / flip sample
Toxic (Britney Spears) flip sample bài Tere Mere Beech Mein (nhạc phim truyền hình Ấn Độ!!?!)
Shut Down (Black Pink) flip sample bài La Campanella (Paganini)
Feel My Rhythm (Red Velvet) sample bài Air on the G String (Bach)
Izzo (Jay Z & Kanye West) flip sample bài I Want You Back (Jackson 5) - 2 ca khúc vô cùng nổi tiếng. Chú ý phần piano và synth
Toxic (Britney Spears) sử dụng samples từ … nhạc phim Bollywood kết hợp với âm hưởng của nhạc phim từ series James Bond (hoà thanh của tiếng violin và guitar)
Cùng với sự phát triển của Internet thì sample đã thực sự trở thành một ngành công nghiệp. Qua rồi cái thời mà những nghệ sĩ phải mải miết mày mò và tìm kiếm các bản nhạc (record) cũ để tìm sample, ngày nay việc đó có thể được làm chỉ với một cú nhấp chuột. Sự xuất hiện của những sàn thương mại (marketplace) cho việc mua bán sample như Splice hay Beatstars đã kéo theo cả sự phát triển cộng đồng sáng tạo sample - những người chuyên sản xuất những đoạn nhạc (soundbites) và bộ tiếng cho người khác sử dụng như KSHMR hay Echo Sounds Work. Nếu như việc sử dụng sample từ những ca khúc có sẵn thường yêu cầu nghệ sĩ phải ghi tác quyền cho tác giả gốc, thì những sample được mua từ những sàn thương mại điện tử này thường đều được miễn phí bản quyền (royalty free). Đồng nghĩa rằng ai cũng có thể mua và sử dụng tuỳ ý mà không cần phải ghi tác quyền (credit) cho tác giả gốc.
Với sự xuất hiện của các sàn thương mại dành cho Sample như Splice và Beatstars, việc mua bán và sử dụng samples đã trở thành một phần thiết yếu trong âm nhạc
Sample là công cụ hỗ trợ đắc lực cho những người nghệ sĩ. Họ có thể sử dụng chúng để tìm nguồn cảm hứng, hoặc sử dụng trực tiếp trong các sản phẩm của mình. Và không còn chỉ là những mẹo hay mánh khoé trong quá trình sản xuất nữa, ngày nay việc lựa chọn và sử dụng một sample đặc sắc có thể trở thành một yếu tố quan trọng tạo nên thành công cho một sản phẩm âm nhạc. Tiêu biểu như ca khúc đã thống trị bảng xếp hạng Billboard Hot 100 năm 2019 - Old Town Road: được Lil Nas X sáng tác hoàn toàn trên nền beat sản xuất bởi YoungKio và được bán với giá 30$ trên BeatStars.
Để hiểu hơn về cách nghệ sĩ tạo và sử dụng sample trong quá trình sáng tác, thì bạn có thể xem thêm ví dụ dưới đây về Kanye West (một trong những bậc thầy trong việc sử dụng sample) và quá trình làm nhạc của anh ấy trong Studio
Từ giây 0:50. có thể thấy quá trình Kanye flip một sample bằng cách cắt nhỏ ra thành nhiều phần rồi chơi chúng cho đến khi tìm được một giai điệu ưng ý
Đổi lại, thì đôi khi cũng có những trường hợp nhà sản xuất quá lạm dụng sample trong các sản phẩm âm nhạc của mình. Khoảng cuối 2021 đầu 2022, mình còn băn khoăn không biết là mình có bị hoang tưởng không khi nghe một loạt các ca khúc thịnh hành K-pop như WooAh Hip (Mamadol), Delimma (Apink), O.O (NMIXX), hay Mafia In The Morning (Itzy) mình đều thấy văng vẳng trong đầu một giai điệu giống nhau lạ kì. Và y như rằng, mình không phải là người duy nhất nhận ra điều này - các bài hát đều sử dụng đoạn sample My Best Life của KSHMR.
Sample thống trị các ca khúc K-Pop khoảng cuối 2021 đầu 2022
Bên cạnh đó, việc mua bán và sử dụng sample đôi khi còn dẫn đến những tình huống dở khóc dở cười khi xảy ra tranh chấp giữa các ca khúc bị nghi là giống nhau, nhưng sau đó được phát hiện ra là do mua và sử dụng cùng một đoạn sample. Ví dụ có thể kể đến như bài Running Over (Justin Bieber) và Synergy (Asher Monroe) cùng sử dụng sample mua từ Splice sản xuất bởi Laxcity, hay gần gũi hơn là bài Chúng Ta Của Hiện Tại (Sơn Tùng MTP) và R&B All Night (KnowKnow) dùng chung sample “Is You Mine" của GC. Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh lại rằng, những trường hợp này đều không thể được quy kết là đạo nhạc. Bởi vì như đã chia sẻ, khi mà nghệ sĩ đã mua quyền sử dụng các sample thì họ có thể tuỳ ý sử dụng cho các sản phẩm của mình mà không cần phải ghi tác quyền
Sample được sử dụng để sáng tác bài Chúng Ta Của Hiện Tại (Sơn Tùng MTP) R&B All Night (KnowKnow)
1.4. Interpolation (Phép nội suy)
Định nghĩa:
Việc tái tạo lại một giai điệu có sẵn để sử dụng trong một sản phẩm âm nhạc mới, với điều kiện là cần phải có sự đồng thuận và chia sẻ lợi nhuận với tác giả gốc.
Khác với sample, thì với phép nội suy, nghệ sĩ không dùng lại y nguyên nguyên tác mà tự tái tạo lại chúng bằng những nguyên liệu khác (nhạc khí, giọng hát, v.v…) với mục đích nhằm tái hiện lại chất nhạc của nguyên tác thay vì cố tình thay đổi nó.
Yêu cầu bản quyền
Bắt buộc cần phải có sự đồng ý của chủ sở hữu của sản phẩm
Ví dụ về việc sử dụng phép nội suy
I Ain’t Worry (One Republic) nội suy từ Young Folks (Peter Bjorn And John) - chú ý vào tiếng huýt sáo
I'm Good (Bebe Rexha & David Guetta) nội suy từ Blue Da Ba Dee (Eiffel 65)
thought it was (Machine Gun Kelly & Travis Barker) nội suy từ Closing Time (Semisonic) - dựa trên giai điệu phần lời chính (verse)
Cold Heart (Dua Lipa) nội suy từ Sacrifice (Elton John)
Betty (Yung Gravy) nội suy từ Never Gonna Give You Up (Rick Astley)* - mình sẽ đề cập thêm ở phần dưới
Không phải nói quá nếu nhận định rằng chúng ta đang sống trong thời kì mà phép nội suy chiếm lĩnh các bảng xếp hạng. Trong Switched On Pop - chương trình podcast về âm nhạc nổi tiếng - người dẫn chương trình (host) Charlie Harding và Nate Sloan đã đặt tên cho khái niệm này là Vibe Snatcher (tạm dịch là sao chép cảm nhận). Đây là từ để chỉ hiện tượng ngày càng có nhiều nghệ sĩ sử dụng những nguyên liệu từ các ca khúc nổi tiếng từ trước vào trong các sáng tác mới của mình. Cụ thể, Charlie còn phân tích những bài hát thuộc bảng xếp hạng Billboard Hot 100 từ năm 2010 đến giờ và nhận ra được sự ảnh hưởng ngày càng lớn dần của việc sử dụng phép nội suy, cụ thể:
Khoảng từ 2010 - 2015: 10% bài hát có sử dụng phép nội suy
Khoảng từ 2016 - 2021: 20 % bài hát có sử dụng phép nội suy (gấp đôi)
Có nhiều nguyên nhân để lí giải cho xu hướng này. Đó có thể là sự phát triển của công nghệ streaming, khi mà chúng ta có thể dễ dàng tiếp cận được nhiều phong cách âm nhạc hơn, bất kể thời kì hay khoảng cách địa lý nào. Đó cũng có thể là những tính toán của các nghệ sĩ để tiếp cận được với một bộ phận lớn khán giả muốn tìm về những giá trị hoài niệm. Hay đó cũng thể là do áp lực phải thành công của người nghê sĩ: tại sao phải thử nghiệm và tạo ra thứ gì đó hoàn toàn lạ lẫm trong khi chúng ta có thể sử dụng lại những nguyên liệu đã từng khẳng định được sự thành công? Trong giới âm nhạc, có một điều họ thường kháo nhau rằng “Một bản hit sẽ luôn là một bản hit". Và do đó, việc sử dụng phép nội suy để tái tạo lại một ca khúc là điều hoàn toàn có thể hiểu được.
2. Nguyên nhân dẫn đến những nghi án đạo nhạc
Bên cạnh việc sử dụng những biện pháp sao chép hoàn toàn hợp lệ trên, thì còn không ít những lí do khách quan khác dẫn đến việc các bài hát có thể có nhiều sự tương đồng. Trong phần này, chúng ta cùng tìm hiểu thêm về những nguyên nhân này nhé.
Sự tương đồng về tư duy khi ai cũng có thể học làm nhạc
Khi việc học hỏi bị lạm dụng
Khi nghệ sĩ sáng tác dựa trên beat có sẵn
Khi nghệ sĩ sáng tác dựa trên đơn đặt hàng
Khi nghệ sĩ nhận được yêu cầu từ chính các nhà phát hành nhạc (music publisher)
2.1. Sự tương đồng về tư duy khi ai cũng có thể học làm nhạc
Với sự phát triển của công nghệ hiện đại, thì những rào cản để những người bình thường chúng ta làm nhạc đã hoàn toàn bị xoá bỏ.
Ở các thập niên trước, việc sản xuất một bài nhạc là một việc vô cùng đắt đỏ, cần đòi hỏi rất nhiều sự đầu tư, bao gồm: trang thiết bị, phòng thu, hay cả các chuyên gia vận hành các thiết bị chuyên dụng. Một trong những người thầy của mình từng tự hào chia sẻ rằng vào thập niên 90, ông từng sở hữu một chiếc keyboard mà thời điểm đó cả Châu Á chỉ có studio của ông (ở Đài Loan) có. Do đó, các nghệ sĩ ở Châu Á nếu muốn sử dụng tiếng keyboard đặc trưng đó thì bắt buộc phải tìm đến studio của ông.
Còn ngày nay, bất kì ai trong chúng ta cũng có thể làm nhạc bằng chính những vật dụng thân quen nhất. Billie Eilish và anh trai Finneas đoạt 7 giải grammy bằng những ca khúc được thu từ chiếc laptop trong phòng ngủ. D4vd tại vị trong BXH Billboard Hot 100 suốt 20 tuần liên tiếp cùng ca khúc “Romantic Homicide” - ca khúc được thu âm và sản xuất hoàn toàn với chiếc điện thoại iPhone cùng ứng dụng BandLab. Và còn rất nhiều ví dụ khác nữa
Khi mà ai cũng có thể bắt đầu làm nhạc thì sự khác biệt có lẽ sẽ đến từ kinh nghiệm, kiến thức, tư duy, và tính sáng tạo đến từ chính người nghệ sĩ. Không phủ nhận rằng có nhiều giai điệu vô cùng đặc trưng và đã trở thành thương hiệu của người nghệ sĩ mà không phải ai cũng nghĩ ra được. Tuy nhiên, cũng có vô vàn những ca khúc mà đôi khi ngay cả lần nghe đầu mình cũng có thể lò mò dự đoán được giai điệu tiếp sẽ như nào. Về mặt chủ quan, đây có thể là do việc lạm dụng lối tư duy giai điệu và mô típ đã quá cũ. Còn về mặt khách quan, với sự phát triển của công nghệ streaming thì khối lượng âm nhạc mà mỗi người chúng ta tiếp cận và tiêu thụ là khổng lồ. Do đó, không thể tránh được sự tương đồng trong tư duy thẩm mỹ âm nhạc, dẫn tới việc sản phẩm hoàn thiện lại vô tình giống nhau.
2.2. Khi việc học hỏi bị lạm dụng
Với những người mới bắt đầu làm nhạc và ít kinh nghiệm, thì một trong những cách hiệu quả nhất để cập nhật kiến thức mới và trau dồi kĩ năng là học hỏi (và đôi khi là sao chép) từ những nghệ sĩ nổi tiếng
Tuy nhiên, nghệ sĩ phải luôn tự giác trong việc phân biệt giữa học hỏi và sao chép. Không thể chỉ chăm chăm sao chép lại y chang những gì nghệ sĩ khác làm mà chính họ cần phải tự trả lời được cho bản thân rằng:
Có những yếu tố nào tạo nên thành công cho sản phẩm?
Vì sao các yếu tố đó lại hợp với sản phẩm này?
Cụ thể theo nhạc lí hoặc kĩ thuật sản xuất thì các yếu tố mình thích là gì? ví dụ: cấu trúc hỏi - đáp (call & response), cách sử dụng hợp âm 7 và 9 cho synth, cách kết hợp các bộ tiếng (layer), v.v….
Làm sao để tận dụng những điểm này để phục vụ cho sản phẩm của riêng mình?
Chỉ khi việc học hỏi đi kèm với quá trình tự đánh giá và phân tích này thì nghệ sĩ mới tránh được việc lạm dụng học hỏi quá mức vô hình chung dẫn đến hành vi sao chép.
2.3. Khi nghệ sĩ sáng tác dựa trên beat có sẵn
Sáng tác trên nền beat có sẵn là một việc rất phổ biến, đặc biệt là với những nghệ sĩ trẻ và thiếu kinh nghiệm. Bản thân mình cũng rất thường xuyên áp dụng cách sáng tác này, chỉ đơn giản vì việc nghe một đoạn nhạc với đầy đủ nhạc khí (instrumental) hoàn chỉnh mang cho mình nhiều cảm hứng hơn rất nhiều so với việc chỉ dựa vào vòng hợp âm hoặc sáng tác chay.
Đối với mình, đây cũng giống như việc người làm thiết kế đứng trước lựa chọn bắt đầu bằng một tờ giấy trắng hoặc tham khảo một số tư liệu để bắt đầu sáng tác. Điều này hoàn toàn có thể thông cảm được vì xét cho cùng, làm nhạc là một công việc đòi hỏi tính sáng tạo, và đôi khi sự sáng tạo chỉ xảy đến khi chúng ta được truyền cảm hứng, chứ không thể lập trình được mà có được.
Trong một nền âm nhạc đang phát triển như Việt Nam, thì việc sáng tác trên nền beat có sẵn là vô cùng phổ biến, đặc biệt là trong những năm đầu của thế kỉ 21 khi độ tiếp cận âm nhạc của chúng ta còn chưa được sâu sắc. Có thể kể đến những ví dụ như:
Cơn Mưa Qua (Lil Knight) sáng tác trên nền We Belong Together (Mariah Carey)
Tuyết Yêu Thương (Young Uno) sáng tác trên nền Jiang Nan (JJ Lin)
Và có lẽ cũng không thể bàn luận đến chủ đề này mà không đề cập đến Sơn Tùng MTP, một người luôn vướng vào những lùm xùm về việc sáng tác trên beat có sẵn. Bản thân là một người ưa thích phong cách âm nhạc của Sơn Tùng, nhưng mình không thể phủ nhận được sự vay mượn beat từ những ca khúc nổi tiếng trong quá trình sáng tác của anh, tiểu biểu như:
Cơn Mưa Ngang Qua sáng tác trên nền Sarangi Mareul Deutjianha (Namolla Family)
Nắng Ấm Xa Dần sáng tác trên nền Monologue (As One)
Một cộng một lớn hơn hai sáng tác trên nền First Love (IU & Na Yoon Kwon)
Em Của Ngày Hôm Qua sáng tác trên nền Every Night (EXID)
Có Chắc Yêu Là Đây sáng tác trên nền Lucky (Robin Wesley)
Đây cũng chính là lí do mà khi tìm nghe những ca khúc này trên các nền tảng streaming, ta sẽ không thể nào tìm được những bản thu gốc (vào thời điểm mà những ca khúc này được phát hành) mà chỉ có những bài hát đã được remix và thay hoàn toàn phần nhạc khí (instrumental). Đây là một điều bắt buộc để giúp Sơn Tùng tránh những rắc rối liên quan tới các ca khúc này.
Tuy nhiên, cần phải nhìn nhận công tâm và thoả đáng rằng xác rằng việc sáng tác trên nền beat có sẵn là điều hoàn toàn không sai. Bởi vì nếu tạm bỏ qua phần nhạc khí, thì nếu dựa trên những yếu tố căn bản như nhịp điệu hay giai điệu thì gần như sẽ là không thể phát hiện được điểm tương đồng. Giả sử ngay từ đầu nghệ sĩ tự phối lại phần nhạc khí, thì cả khán giả hay những người trong nghề cũng không thể nhận ra được sự giống nhau vì điểm tương đồng duy nhất vào lúc đó chỉ còn là vòng hợp âm (mà như bài 1 chúng ta đã cùng phân tích là không đủ để kết luận việc đạo nhạc).
Rắc rối sẽ chỉ xảy đến khi mà nghệ sĩ áp y xì đúc chính đoạn beat gốc rồi đem đi phát hành. Những rắc rối mà Sơn Tùng MTP gặp phải trong những khoảng thời gian đầu của sự nghiệp có lẽ đã là một bài học sâu sắc cho những nghệ sĩ trẻ sau này, và giúp cho những trường hợp tương tự ngày càng ít xảy ra hơn (cho đến khi bài Hai Con Mực xuất hiện)
2.4. Khi nghệ sĩ sáng tác dựa trên đơn đặt hàng
* Chú thích: những chia sẻ dưới đây là dựa trên những trải nghiệm thực tế của mình tại Singapore, và do đó nó có thể sẽ không phản ánh chính xác thị trường âm nhạc Việt Nam. Nhưng không thể phủ nhận là ít nhiều sẽ có những điểm tương đồng
Có một sự thật mà khán giả đại chúng có thể không nhìn thấy được đó là ngành âm nhạc hoạt động theo một mô hình khá công nghiệp: nghệ sĩ đặt hàng cho những nhạc sĩ để sáng tác ca khúc cho họ. Mỗi nghệ sĩ thì sẽ có hình ảnh, gu âm nhạc hay thế mạnh phù hợp với những phong cách âm nhạc khác nhau. Do đó, các nhạc sĩ thường sẽ cần phải có những yêu cầu vô cùng chi tiết và cụ thể của nghệ sĩ để họ có thể sáng tạo ra ca khúc phù hợp với những tiêu chí đó.
Lấy ví dụ, một đơn đặt hàng như vậy có thể giống như sau
Rắc rối sẽ thường xảy ra khi mà khách hàng - có thể là nghệ sĩ hoặc các nhãn hàng - có những yêu cầu quá cụ thể và cứng nhắc thì việc sản phẩm được tạo ra trở nên quá giống với những nguyên tác mà họ muốn hướng tới. Tưởng tượng như việc bạn là một đầu bếp được giao nhiệm vụ nấu chín một quả trứng nhưng chỉ được sử dụng nước, thì quả thật là quá khó cho bạn có thể nghĩ ra món gì khác ngoài việc đem luộc quả trứng đấy.
Điều này đặc biệt càng dễ xảy ra khi nghệ sĩ nhận lời từ các nhãn hàng để làm các ca khúc phục vụ cho mục đích quảng cáo khi họ không nắm sự chủ động trong quá trình sáng tác. Lấy ví dụ như bài Chạy Về Khóc Với Anh (Erik) mà mình đã chia sẻ là rất giống với bài Sứ Thanh Hoa (Jay Chou), thì rất có thể nhạc sĩ Nguyễn Phúc Thiện đã nhận được một bản brief từ nhãn hàng game Genshin Impact như sau (hoàn toàn do mình bốc phét ra)
Yêu cầu bài hát
Ca sĩ: ERIK
Bối cảnh: ca khúc quảng bá cho thương hiệu game Genshin Impact tại Việt Nam
Yêu cầu
Ca khúc mang đậm âm hưởng nhạc cung đình Trung hoa (nhạc cụ, cách hát, vv…)
Giai điệu dễ hát, beat nhẹ nhàng (kết hợp R&B)
Tận dụng các tư liệu từ ca khúc Peaceful Hike (Qingce Daytime) của Genshin Impact - thực tế có thể thấy phần nhạc khí hay giai điệu phần cuối điệp khúc đều lấy trực tiếp từ bản nhạc phim
Bố cục: verse + chorus (x2). Không có bridge. Chorus cuối nâng lên nửa tông
Ví dụ: Sứ Thanh Hoa - Jay Chou
2.5. Khi nghệ sĩ nhận được yêu cầu từ chính các nhà phát hành nhạc (Music Publisher)
Đây là khi mà các Nhà Phát hành Âm nhạc (Music Publisher) trực tiếp yêu cầu hoặc mời chào các nghệ sĩ sử dụng chất liệu từ những ca khúc sẵn có của những nghệ sĩ khác thuộc danh mục của họ. Đây là một xu hướng mới của thế giới và có lẽ vẫn còn khá mới mẻ tại Việt Nam.
Để hiểu hơn về vấn đề này thì chúng ta cần tìm hiểu về vai trò của các nhà phát hành âm nhạc (Music Publisher). Họ là những đơn vị chịu trách nhiềm xử lý bản quyền của các sản phẩm âm nhạc. Do đó, mỗi nhà phát hành thường sẽ là đơn vị sở hữu bản quyền của một danh mục sản phẩm của nhiều nghệ sĩ nổi tiếng, ví dụ như Marvin Gaye, Bob Marley hay Michael Jackson. Và với tư cách là chủ sở hữu, họ trực tiếp được hưởng lợi nhuận phát sinh từ những danh mục này.
Đây cũng chính là lí do vì sao gần đây lại có thông tin Hipgnosis Song Management mua lại toàn bộ danh mục các bài hát của Justin Bieber với mức giá khổng lồ: 200 triệu đô Mỹ. Họ trả mức đó không bởi vì các bài hát của Justin Bieber có giá trị sưu tầm (collection) cao, mà thực chất là do họ nhìn thấy tiềm năng gia tăng doanh thu từ chính danh biệt này. Đặc biệt là trong thời kì của streaming hiện nay, khi khán giả có thể dễ dàng tiếp cận với âm nhạc của những nghệ sĩ từ thời trước hơn
Do đó, khi mà các nhà phát hành mời chào các nghệ sĩ sử dụng các chất liệu từ các ca khúc nổi tiếng trong danh mục của họ giúp tạo được tình huống đôi bên cùng có lợi:
Nghệ sĩ được cấp phép để sử dụng chất liệu từ các ca khúc hit (sample hoặc interpolation), đồng nghĩa với việc tỉ lệ bài hát mới có thể thành công cũng cao hơn chỉ đơn thuần từ độ nhận diện
Nhà phát hành hưởng lợi khi có doanh thu từ các sản phẩm tái sinh khi mà các tác phẩm gốc đã đi hết vòng đời của mình được tái tạo lại và kéo dài khả năng sinh lời
Điều này cũng chính là lí do vì sao mà ở trên mình có nhận định rằng chúng ta đang sống trong thời kì thống trị của phép nội suy khi mà ngày có càng nhiều ca khúc là sản phẩm phái sinh (derivative) từ các ca khúc kinh điển khác. Với sự hỗ trợ của dữ liệu từ các nền tảng như TikTok hay Shazam, các nhà phát hành âm nhạc có thể dễ dàng đánh giá tiềm năng sinh lời từ danh mục các sản phẩm của họ cũng như dự báo xu hướng âm nhạc mới. Qua đó, họ có thể trực tiếp tham dự vào quá trình sáng tác của các nghệ sĩ, và vô hình chung dẫn đến việc ngày càng nhiều ca khúc giống nhau.
Các nhà phát hành (Music Publisher) có thể trực tiếp mời chào các nghệ sĩ sử dụng tài liệu từ các danh mục âm nhạc của họ như là một kênh công cụ để gia tăng lợi nhuận cho các sản phẩm đã qua chu kỳ phát hành
3. Cần có một thước đo chuẩn khi đánh giá hành vi đạo nhạc
Trong quá trình nghiên cứu và tìm đọc các bài viết liên quan đến chủ đề đạo nhạc ở Việt Nam, điểm chung mình nhận ra đó là các cuộc tranh luận đều dựa trên đánh giá giữa lằn ranh trắng - đen: giữa đạo nhạc và không đạo nhạc.
Tuy nhiên, bản chất của việc đánh giá theo góc nhìn trắng - đen là nó dựa vào khá nhiều quan điểm và góc nhìn của mỗi cá nhân. Và như chúng ta cũng đã tìm hiểu ở trên, thì có rất nhiều lí do, cả khách quan lẫn chủ quan, làm cho các ca khúc có ít nhiều sự tương đồng. Nếu chúng ta chỉ cứng nhắc nhìn nhận sự việc dưới lăng kính soi chiếu trắng đen đó, thì e rằng có sự thiếu xót về tính công tâm.
Thay vào đó, mình muốn đề xuất một cách đánh giá khách quan hơn: sử dụng một thước đo chung để đánh giá không chỉ dựa vào sự tương đồng của ca khúc mà còn xét thêm cả hoàn cảnh/bối cảnh chúng được sáng tác nữa. Thước đo đó sẽ giống như sau (thứ tự càng cao thì nguy cơ đạo nhạc càng cao)
Lưu ý:
Mức độ 5 khá là nguy hiểm, nếu sử dụng biện pháp này, nghệ sĩ phải xây dựng phần hoà âm phối khí khác và đảm bảo nó không quá tương đồng với nguyên tác
Từ mức độ 6 trở lên bắt buộc cần phải có sự đồng thuận từ tác giả gốc để không bị xét vào diện đạo nhạc.
Ưu điểm của thước đo này là có sự phân cấp rõ ràng hơn của các hành vi cấu thành nên nguy cơ đạo nhạc. Chúng cũng là những yếu tố mà phần đông khán giả hoàn toàn có thể phân tích và tranh luận khách quan được, chứ không đơn thuần là quan điểm chủ quan nữa.
Bên cạnh đó, thước đo này có giá trị cho cả nghệ sĩ lẫn những nhà làm luật và các cơ quan có thẩm quyền. Nghệ sĩ có thể chủ động hơn trong việc tự đánh giá được mức độ nguy hiểm và khả năng đạo nhạc của mình. Nhà làm luật cũng có thể đánh giá được một cách sâu sắc hơn động cơ của nghệ sĩ trong các vụ tranh chấp
Để lấy làm ví dụ, thì dưới đây là phân tích của cá nhân với các ca khúc nổi tiếng V-Pop sử dụng các cấp độ đánh giá này
(Chú ý: dưới đây hoàn toàn là quan điểm cá nhân của mình, do đó sẽ không thể tránh được thiếu xót và chỉ có giá trị tham khảo)
4. Xu hướng của thế giới với vấn đề đạo nhạc
4.1. Thà xin nhầm còn hơn bỏ sót
Câu hỏi: Khi nghe những giai điệu của bài Memories (Maroon 5), bạn có thể nghe thấy được điểm tương đồng với một ca khúc nổi tiếng nào khác không?
Mình tin rằng phần lớn khán giả (bao gồm cả mình) sẽ nghĩ đến bài Canon (Pachabel) - một ca khúc đã quá đỗi quen thuộc với tất cả chúng ta, đặc biệt là trong các dịp lễ cưới. Câu hỏi khá dễ phải không nào?
Tuy nhiên, đây lại không phải là câu trả lời chính xác. Thực chất, ca khúc mình đang muốn nhắc tới đó chính là bài No Woman No Cry (Bob Marley). Chúng ta cùng nghe và tìm những điểm tương đồng này nhé.
Thú thực là sau khi đã cố nghe rất nhiều lần thì mình đi đến kết luận rằng hai ca khúc này chả có gì giống nhau. Ấy thế mà chính Maroon 5 lại credit Vincent Ford (tác giả của No Woman No Cry, người đã mất vào năm 2008) trong phần tác quyền của bài Memories (một ca khúc phát hành năm 2015) dưới hình thức nội suy. Vậy thì điều này có ý nghĩa gì?
Lí giải cho câu hỏi này, Justin Shukat, chủ tịch của Primary Wave Music Publishing (đơn vị sở hữu các sản phẩm của Bob Marley), chia sẻ rằng chính Maroon 5 đã chủ động liên lạc với họ để xin phép nội duy ca khúc No Woman No Cry chứ không phải là họ yêu cầu điều này.
Đây thực tế là một xu hướng đang diễn ra trong giới âm nhạc Âu Mỹ những năm gần đây. Các nghệ sĩ nổi tiếng sẽ nhờ những nhà âm nhạc học (musicology) phân tích các sản phẩm mới của họ và đánh giá nếu có sự tương đồng hay vô tình vay mượn từ sản phẩm của các nghệ sĩ khác không. Nếu có sự tương đồng (cho dù là vô cùng nhỏ) thì tuỳ vào trường hợp mà các nghệ sĩ có thể vẫn chủ động xin phép tác quyền, như là một cách để đề phòng những rủi ro không đáng có về vấn đề bản quyền, đặc biệt là với các nghệ sĩ có sức ảnh hưởng như Bob Marley, Michael Jackson, vv…. Nói nôm na thì đây chính là xu hướng “thà xin nhầm còn hơn bỏ sót".
Các nghệ sĩ chủ động đi xin tác quyền (dù đôi khi sự tương đồng chỉ là vô cùng nhỏ) để đề phòng và tránh những rủi ro tranh chấp bản quyền không đáng có
Và thực tế đã chứng minh rằng việc các ca sĩ cẩn thận như thế này là không hề thừa. Thậm chí, nhiều khi có ca khúc đã xin phép rồi nhưng vẫn không tránh khỏi tranh chấp. Gần đây nhất, Rick Ashley đã kiện ngược lại Yung Gravy với lí do nội suy quá đà từ ca khúc “Never Gonna Give You Up" và làm trái với thoả thuận ban đầu. Cụ thể, mặc dù phía Yung Gravy đã xin phép nội suy ca khúc này cho bài “Betty. Tuy nhiên, phía Rick Ashley lại nhận định rằng phần điệp khúc quá giống nhau và việc Yung Gravy sử dụng một ca sĩ giả giọng của Rick Ashley được cho là không hợp pháp và làm ảnh hưởng tới hình ảnh của nghệ sĩ này. Từ ví dụ này, ta có thể thấy được tầm quan trọng của việc xin phép và trao đổi kĩ càng về các vấn đề liên quan tới bản quyền như thế nào
4.2. Bản quyền cho các sản phẩm có sự can thiệp của AI (trí thông minh nhân tạo)
Một chủ đề nóng hỏi gần đây đó là việc bảo hộ bản quyền cho các tác phẩm được sáng tạo ra bằng sự hỗ trợ của các công nghệ trí thông minh nhân tạo (AI), nhất là trong thời kì việc sử dụng AI trong âm nhạc không phải là một câu chuyện viễn tưởng nữa mà là một thực tế đang diễn ra.
Và theo dòng sự kiện này, thì mới đây nhất, Văn phòng Bản quyền Hoa Kỳ (U.S Copyright Office, hay USCO) đã ban hành những hướng dẫn chung về vấn đề bản quyền cho các tác phẩm có sự can thiệp của AI, bao gồm những ý chính sau:
Luật bản quyền chỉ được áp dụng cho các sản phẩm thuộc về sự sáng tạo của con người (copyright can protect only material that is the product of human creativity)
Nếu một sản phẩm được tạo nên bởi con người cùng với sự hỗ trợ của AI, thì chỉ những phần được trực tiếp đóng góp bởi con người mới được bảo vệ. Giả sử, nghệ sĩ đơn giản chỉ đưa ra yêu cầu và AI tự động tạo ra tất cả bản nhạc, thì ca khúc đó sẽ không được bảo vệ. Tuy nhiên, nếu như nghệ sĩ có những cải biên và can thiệp để hoàn thiện sản phẩm thì những thay đổi đó có thể được xem xét cho việc xét bản quyền
Tuy nhiên, việc đánh giá và xem xét các trường hợp sẽ còn phụ thuộc thêm vào hoàn cảnh của từng tác phẩm (case-by-case basis)
Lời kết
Cần phải nhìn nhận công tâm rằng ngày nay, nhận thức và sự hiểu biết của các nghệ sĩ và khán giả về các vấn đề liên quan tới đạo nhạc đã sâu sắc hơn rất nhiều. Khi mà nền âm nhạc nước nhà vẫn đang mới bắt đầu tìm con đường khẳng định mình trên bản đồ âm nhạc trên thế giới, thì khán giả vẫn sẽ có trong mình những hoài nghi và định kiến đối với các sản phẩm âm nhạc của nghệ sĩ Việt.
Tuy nhiên, thay vì nhìn nhận đây như một vấn đề tiêu cực thì chính bản thân nghệ sĩ phải có trách nhiệm nâng cao tiêu chuẩn của bản thân, đạo đức và sự tự tôn của người làm nghề. Họ cần phải chủ động hơn trong việc tự đánh giá nguy cơ vướng đạo nhạc cho các tác phẩm của mình để từ đó có thể đưa ra những quyết định chính xác. Họ cần biết rằng việc làm này cũng chính là một hành động thiết thực để bảo vệ các quyền lợi của chính họ. Minh tin rằng kể cả khi có sự vay mượn và học hỏi ý tưởng, thì khán giả họ cũng sẽ không trách cứ và phán xét những nghệ sĩ chủ động và tự giác trong việc xin phép tác quyền. Đây là những yếu tố vô cùng quan trọng để giúp chuyên nghiệp hoá nền âm nhạc nước nhà trong công cuộc hội nhập với nền âm nhạc của thế giới