Lab Report #1: Đạo nhạc (P.1) - Nên hiểu sao cho đúng?
Tìm hiểu về đạo nhạc dưới góc nhìn nhạc lý
Lời mở đầu
Đây là bài viết mở đầu cho chuỗi những bài phân tích của mình về các chủ đề liên quan tới âm nhạc trên blog này. Bài viết mới sẽ được cập nhật hai tuần một lần, phần lớn là về những vấn đề và hiện tượng thú vị mà bản thân mình muốn tìm hiểu sâu hơn. Các bạn đón đọc các bài viết của mình trên substack Raz In The Lab nhé
Do nội dung dài nên bài viết này được chia làm hai phần. Bạn đang đọc phần 1
Tổng quan
Rào cản cho việc xác định hành vi đạo nhạc - Thiếu vắng những quy định cụ thể
Nhìn nhận việc đạo nhạc bằng nhạc lý - Sự tổng hoà của nhiều yếu tố
1. Đạo nhạc - chủ đề chưa bao giờ ngừng hot
Đạo nhạc luôn là một chủ đề thu hút nhiều sự chú ý và bàn tán của xã hội. Tuy nhiên, mình nhận thấy rằng phần lớn các bài viết về chủ đề này hiện mới chỉ dừng lại ở bước tổng hợp các nghi án đạo nhạc chứ chưa thật sự đi sâu vào lí giải nguyên do hay những vấn đề phức tạp khác. Do bản tính tò mò, mình quyết định tự tìm hiểu và tìm lời giải đáp những câu hỏi sau:
Đạo nhạc là gì?
Làm sao để đánh giá và phân biệt một ca khúc bị nghi là đạo nhạc?
Vì sao lại có nhiều ca khúc giống nhau?
Có những nguyên nhân nào (khách quan và chủ quan) dẫn tới hành vi đạo nhạc?
Tương lai nào cho vấn đề đạo nhạc trên thế giới và tại Việt Nam
Và giờ thì chúng ta cùng bắt đầu nhé!
2. Rào cản cho việc xác định hành vi đạo nhạc - Thiếu vắng những quy định cụ thể
Đạo nhạc có thể hiểu nôm na là ‘hành vi sao chép và sử dụng trái phép một ca khúc đã có từ trước của người khác và biến nó thành sản phẩm của mình để thu lợi’. Tuy nhiên, việc định nghĩa cụ thể và chính xác bằng lý thuyết lại là việc không hề đơn giản. Ngay như trên chính website của Cục Bản quyền tác giả (COV) - cơ quan đầu ngành trong lĩnh vực này - thì cũng không tìm được một văn bản chính thức nào quy định cụ thể về vấn đề này. Văn bản liên quan nhất là Luật Sở hữu trí tuệ 2005 cũng chỉ hướng dẫn chung chung rằng: Tác phẩm âm nhạc nằm trong diện được pháp luật bảo hộ quyền tác giả; được bảo vệ khỏi sự sửa chữa, cắt xét hoặc chế lại lời và giai điêu dưới bất kỳ hình thức nào. Tuy nhiên, thật khó để có thể dựa theo những hướng dẫn này để có thể đánh giá được một cách chi tiết và khách quan những yếu tố có thể cấu thành hành vi đạo nhạc.
Đây không phải là câu chuyện riêng của Việt Nam mà ngay cả những nền âm nhạc tân tiến và phát triển khác như Mỹ, Anh Quốc, và Trung Quốc thì cũng không có tồn tại một văn bản hoặc quy định nào như vậy. Lấy ví dụ: luật pháp ở Mỹ chỉ có quy định về việc bảo hộ quyền tác giả trong trường hợp họ chứng minh được 2 điều sau:
Khả năng tiếp cận (Accessability) - người vi phạm có khả năng nghe (hoặc được nghe) bài hát gốc trước khi sáng tác
Sự tương đồng đáng kể (Substantial Similarity) - khán giả phổ thông có thể dễ dàng nhận biết và chỉ ra được những yếu tố tương đồng giữa hai ca khúc. Càng nhiều yếu tố tương đồng đồng nghĩa với việc cơ sở kết luận đạo nhạc càng rõ ràng hơn
Một lần nữa, vẫn là những thông tin vô cùng chung chung và khó có thể sử dụng để đánh giá khách quan trong mọi trường hợp được. Ngoài ra, mình còn bắt gặp một số bài viết đề cập đến các quy tắc khác để phân biệt như: (1) trùng nhau 4, 6 hoặc hơn 8 nốt nhạc hay là (2) có sự tương đồng tối thiểu 30% giữa hai bài hát (mà cũng không rõ là dựa vào đâu?). Qua quá trình tìm hiểu, tất cả thực chất đều chỉ là những quy tắc ngầm được truyền miệng chứ không thực sự dựa trên một quy định hay văn bản chính thức nào
Qua đó, điểm chung và cũng là thách thức lớn nhất trong việc nhìn nhận và đánh giá đạo nhạc chính là sự phụ thuộc vào ý kiến chủ quan của mỗi người. Mà đã là ý kiến chủ quan thì việc có những ý kiến trái chiều là điều không thể tránh khỏi - cũng chính là lí do vì sao những nghi án đạo nhạc lại làm cho các cơ quan quản lý phải đau đầu và vất vả xử lý như vậy
Luận điểm #1: Không có văn bản chính thức nào quy định về hành vi đạo nhạc. Việc đánh giá phụ thuộc hoàn toàn vào ý kiến chủ quan của mỗi người
3. Nhìn nhận việc đạo nhạc bằng nhạc lý - Sự tổng hoà của nhiều yếu tố
Khi mà các cơ quan quản lý không có những quy định cụ thể về hành vi đạo nhạc, câu hỏi được đặt ra là khán giả đại chúng chúng ta có thể đánh giá dựa trên những cơ sợ nào? Khác với việc đánh giá những loại hình nghệ thuật khác (tranh ảnh, văn bản), việc đánh giá hai ca khúc giống nhau không hề đơn giản mà đòi hỏi sự tổng hoà của nhiều yếu tố, cụ thể bao gồm:
Cấu trúc (Structure) - đoạn dạo đầu, lời chính, điệp khúc, chuyển tiếp
Nhịp điệu (Rhythm) - tiết tấu, quãng ngắt, nghỉ
Hoà thanh (Harmony) - vòng hợp âm
Giai điệu (melody) - chuỗi các nốt nhạc dịch chuyển theo thời gian, được sắp xếp để làm chủ đạo trong một bài hát
Tốc độ của bài hát (Tempo)
Thủ thuật phối khí (Production Techniques)
Không phải bất kỳ sự tương đồng nào cũng là đủ để kết luận việc đạo nhạc, nhất là khi có một số yếu tố bắt buộc dựa trên yêu cầu quy luật của dòng nhạc. Ví dụ: việc bắt một nghệ sĩ Drum and Bass sáng tác một ca khúc ở 60 BPM để tránh đạo nhạc sẽ là bất khả thi vì như vậy sẽ không thể nào tạo được hiệu ứng cần thiết của dòng nhạc này (thường ở mức 160-180BPM). Mặt khác, không phải yếu tố nào cũng quan trọng như nhau. Nhịp điệu, hoà thanh và giai điệu thường được coi là 3 yếu tố quan trọng nhất để khán giả đánh giá một bài hát. Tuy nhiên, ngay với ba yếu tố này thì nhiều khán giả vẫn chưa có sự hiểu biết chính xác nhất. Chúng ta cùng tìm hiểu nhé!
Luận điểm #2: Nhịp điệu, hoà thanh, và giai điệu là 3 yếu tố quan trọng nhất để nhận diện hành vi đạo nhạc
3.1. Nhịp điệu
Nhịp điệu là sự tổng hợp của tất cả những yếu tố liên quan đến thời gian (thành phần ngang) của một bản nhạc, có thể kể đến như là khoảng cách giữa những nốt nhạc, quãng ngắt, nghỉ, v.v. Đây là một yếu tố quan trọng để tạo nên cảm xúc cho một bản nhạc.
Tuy nhiên, theo quy định hiện hành thì nghệ sĩ không thể đăng ký bản quyền riêng cho nhịp điệu. Qua đó, việc hai bài hát có nhịp điệu giống nhau (nếu không xét cùng các yếu tố khác) là hoàn toàn hợp lệ. Việc này hoàn toàn có thể hiểu được vì nếu không, ngành công nghiệp rap và hip hop có lẽ sẽ không thể nào phát triển đến vậy nếu thiếu đi sự chia sẻ và học hỏi về flow chỉ vì sợ đạo nhạc.
3.2. Hoà thanh
Hoà thanh là sự giao hoà của những âm thanh để tạo thành một bản nhạc. Với khán giả đại chúng, thành phần dễ nhận biết nhất của hoà thanh là tông giọng (tone) và vòng hợp âm (chord progression) - những thành phần giúp tạo nên phần nhạc nền và bộ khung cho giai điệu của bài hát
Theo quan sát của mình, vòng hợp âm là một trong những yếu tố hay được sử dụng nhất khi khán giả so sánh hai ca khúc. Thậm chí, một bộ phận khán giả còn thường chơi thử giai điệu của một ca khúc trên nền của một ca khúc khác, miễn nếu thấy khớp là y như rằng ca khúc đó bị gán mác đạo nhạc. Tuy nhiên, liên quan đến vòng hợp âm, cần phải hiểu rằng:
Vòng hợp âm không thể đăng ký bản quyền
Một số dòng nhạc thường chỉ dùng đi dùng lại một số vòng hợp âm căn bản và thông dụng
Nhạc lí cổ điển phương Tây chỉ có 12 nốt nhạc (Từ Đô tới Si, tính cả nốt trắng và đen trên đàn Piano). Nếu mà chúng ta giới hạn số lượng vòng hợp âm có thể sử dụng thì số lượng ca khúc trên thực tế sẽ rất ít. Do đó, việc giới hạn này là bất khả thi.
Lấy ví dụ từ âm nhạc Âu Mỹ, việc sử dụng chung một vòng hợp âm là vô cùng phổ biến. Dưới đây là một ví dụ vui đến từ nhóm nhạc/hài Axis of Awesome. Với chỉ đúng một vòng bốn hợp âm được sử dụng lặp đi lặp lại, họ có thể biểu diễn tới 38 ca khúc, bao gồm rất nhiều ca khúc thịnh hành với đại chúng khán giả.
Và đôi khi, chính sự trùng lặp này đôi khi lại làm nên những điều thú vị. Bạn đã bao giờ cảm thấy thích thú khi hát một bài hát trên nền của một ca khúc và thấy nó hợp đến không tưởng? Đây chính là cảm nhận của mình khi nghe bản mashup của Crush (David Archuleta) và Love Story (Taylor Swift) - hai ca khúc tưởng là không có một tí liên quan nào và đồng thời cũng là hai bài hát yêu thích của cả một thế hệ tụi mình
Cảm nhận của bạn là thế nào sau khi hai ca khúc này? Liệu chúng ta có thể nhận xét là David Archuleta đạo nhạc của Taylor Swift? Mình tin rằng câu trả lời của phần lớn khán giả đại chúng (bao gồm cả mình) sẽ là KHÔNG!
Luận điểm #3: Kể cả khi hai ca khúc có sự tương đồng về nhịp điệu hay hoà thanh (vòng hợp âm), thì việc đánh giá đạo nhạc không thể chỉ dựa trên một yếu tố riêng lẻ được mà đòi hỏi sự tổng hoà của nhiều yếu tố.
3.3. Giai điệu
Nếu như nhịp điệu thể hiện thành phần ngang của một ca khúc thì giai điệu chính là phần phản chiếu phần dọc - những biến chuyển trong cao độ và thứ tự sắp xếp của các nốt nhạc - cũng là phần chủ đạo và đáng nhớ nhất giúp làm nên cái hồn của một bài hát. Do đó, thật không bất ngờ khi đây chính là thành phần được sử dụng nhiều nhất khi đánh giá ca khúc đạo nhạc
Xét theo lý thuyết, một ca khúc thường được viết bằng một âm giai (hay cung, ví dụ như đô trưởng hay rê thứ). Một âm giai thì lại thường bao gồm 7 nốt chủ đạo. Ví dụ: cung son trưởng (G major) sẽ bao gồm các nốt G - A - B - C - D - E - F#. Nghệ sĩ có thể tuỳ ý sắp xếp và lựa chọn 7 nốt chủ đạo đấy để tạo nên giai điệu cho bài hát. Theo xác suất thống kê thì quả thực là số lượng biến thể có thể xây dựng từ những nốt nhạc này là vô cùng lớn và có lẽ chúng ta cũng không bao giờ phải lo nghĩ việc hết những biến thể để sáng tác nên nhưng ca khúc mới.
Tuy nhiên, chúng ta đều biết rằng không phải cứ ghép các nốt nhạc với nhau là tạo được một bản nhạc, đặc biệt là để tạo nên những giai điệu hay và ấn tượng trong lòng khán giả. Mặt khác, việc làm cho các giai điệu quen thuộc và dễ đoán cũng là một công thức được các nghệ sĩ chú trọng với mong muốn tạo ra một ca khúc hit (cũng là lí do vì sao mà đôi khi có một số bài hát mà chúng ta có thể lờ mờ dự đoán được giai điệu sẽ đi như thế nào ngay trong lần nghe đầu). Do đó, trên thực tế, các nghệ sĩ chỉ có thể kết hợp các nốt nhạc theo một số thứ tự nhất định. Chính điều này vô tình đã dẫn tới việc ngày càng có nhiều ca khúc có phần giai điệu giống nhau
Khi mà mỗi cung thường chỉ có 7 nốt nhạc chủ đạo, nên việc kết hợp các nốt này và tránh trùng lặp với các ca khúc khác là việc không hề đơn giản
Cái khó là có khi có những giai điệu khá giống nhau nhưng có thể rất khó để phát hiện sau khi đã được xử lý và biến tấu cùng các thủ thuật trong quá trình sản xuất. Thậm chí, ngay cả chính những nghệ sĩ đôi khi cũng không nhận ra sự tương đồng trong giai điệu cho đến khi chỉnh tông (mà chính mình cũng từng vô tình có trải nghiệm này khi còn học qua các lớp về sáng tác)
Ngược lại, cũng có những ca khúc có phần giai điệu khá khác nhau, tuy nhiên khi xét về tổng thể lại không thể không làm cho chúng ta liên tưởng đến một ca khúc khác. Để ví dụ cho điều này, mình muốn so sánh giữa ca khúc “Chạy Về Khóc Với Anh” (trình bày Erik, sáng tác Nguyễn Phúc Thiện) và ca khúc “Sứ Thanh Hoa” (Jay Chou) - hai ca khúc đều mang rất nhiều âm hưởng nhạc truyền thống Trung Hoa
Khi so sánh, mình nhận ra rằng cách phát triển giai điệu của hai ca khúc khá khác nhau (điểm tương đồng chỉ vào khoảng 18%). Tuy nhiên, việc hai ca khúc này (1) dùng chung một vòng hợp âm, (2) phần nhịp điệu và quãng ngắt nghỉ có nhiều sự tương đồng (~88%), và (3) sử dụng chung bộ tiếng và hiệu ứng đậm phong cách Trung Hoa truyền thống lại là những lý do chính khiến người nghe cảm thấy chúng quá giống nhau. Đối với phần đông khán giả, những người không có nền tảng nhạc lý chuyên sâu, thật khó để có thể yêu cầu họ phân biệt được rành mạch sự khác nhau này. Trên thực tế, họ sẽ chỉ có thể so sánh được dựa trên những gì mà họ cảm nhận được, phần lớn lại đến 3 yếu tố mình liệt kê ở trên là vòng hợp âm, nhịp điệu, và bộ tiếng. Đó cũng chính là vì sao mà những ca khúc giống như “Chạy Về Khóc Với Anh” lại gây ra nhiều ý kiến trái chiều như vậy.
(Chú thích: việc so sánh này không mang hàm ý kết luận ca khúc “Chạy Về Khóc Với Anh” đạo nhạc mà chỉ là một ví dụ để thể hiện quan điểm rằng hai ca khúc không bắt buộc phải có cùng giai điệu thì mới tạo cảm giác giống nhau. Đôi khi, sự tương đồng này đến từ yêu cầu của ca khúc hay những thủ thuật phòng thu trong quá trình sáng tác và sản xuất. Điều này sẽ được mình phân tích kĩ hơn ở phần 2)
Qua những ví dụ trên, chúng ta phần nào có thể hình dung được những khó khăn và thách thức trong việc đánh giá và kết luận một ca khúc đạo nhạc. Ngay cả khi có một số yếu tố tương đồng cũng chưa chắc là đã là đủ để kết luận hành vi đạo nhạc. Chúng ta cần nhớ rằng: nghệ sĩ chỉ có thể đăng ký bản quyền cho toàn bộ tác phẩm âm nhạc, chứ không phải là cho từng yếu tố riêng lẻ như nhịp điệu, hoà thanh, và giai điệu. Và như vậy thì chúng ta lại phải đối mặt với thách thức ban đầu: sự phụ thuộc vào cảm nhận chủ quan của mỗi con người.
Luận điểm #4: Nghệ sĩ không thể đăng ký bản quyền riêng lẻ cho nhịp điệu, hoà thanh, hay giai điệu được. Chỉ bài hát là nằm trong diện được bảo hộ trí tuệ
Tạm kết (Phần 1)
Tạm kết và tổng kết lại phần 1, chúng ta rút ra được những ý chính sau:
Không có quy định cụ thể hay chính thức nào về hành vi đạo nhạc. Do đó, mọi đánh giá và kết luận đều dựa vào ý kiến chủ quan của từng cá nhân
Nhịp điệu, hoà thanh và giai điệu là một trong những yếu tố chính được sử dụng để đánh giá cơ sở đạo nhạc.
Tuy nhiên, nghệ sĩ không thể đăng ký bản quyền riêng lẻ cho nhịp điệu, hoà thanh, hay giai điệu được. Chỉ bài hát là nằm trong diện được bảo hộ trí tuệ
Do đó, việc đánh giá hành vi đạo nhạc không thể dựa trên một số yếu tố riêng lẻ mà phải dựa trên sự tổng hoà của nhiều yếu tố
Trong phần 2, chúng ta sẽ cùng tiếp tục tìm hiểu về những khía cạnh khác về đạo nhạc, cụ thể như:
Có phải cứ giống nhau thì đã được coi là đạo nhạc? Có những khi nào thì việc giống nhau là hoàn toàn hợp lệ?
Lí do vì sao (chủ quan và khách quan) mà nhiều ca khúc hiện nay lại giống nhau như vậy
Xu hướng của thế giới và lời khuyên cho nghệ sĩ Việt Nam
Cùng đón đọc phần 2 vào ngày 25/3 tới tại đây nhé: